2717. Việt Nam sẽ là đối tác chiến lược tiếp theo của Mỹ?

Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Lloyd J. Austin III và Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phan Văn Giang tiến hành thảo luận song phương tại Bộ Quốc phòng Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam, ngày 29/7/2021.
Ảnh: DoD của Chad J. McNeeley

Động lực giờ đây đang được thiết lập để hai nước công bố quan hệ đối tác chiến lược, vốn đã quá hạn lâu dài, trong lần gặp mặt trực tiếp giữa các nhà lãnh đạo cấp cao nhất của họ vào lần tới.

THE DIPLOMAT by Alexander L. Vuving – August 21, 2021

Ba Sàm lược dịch

(Alexander L. Vuving là giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á – Thái Bình Dương, Daniel K. Inouye. Các ấn phẩm gần đây của ông bao gồm một cuốn sách có tựa đề “Hindsight, Insight, Foresight: Thinking about Security in Indo-Pacific”, với hai chương có tiêu đề “Cạnh tranh nước lớn: Bài học từ quá khứ, Hàm ý cho Tương lai” và “Môi trường Chiến lược của Liên minh Mỹ – Úc trong Kỷ nguyên Ấn Độ – Thái Bình Dương.”)

Những lần gặp gỡ khó khăn thường là những thời khắc của sự thật. Đại dịch COVID-19 đã tạo cơ hội cho mọi người thể hiện cam kết thực sự của họ với bạn bè.

Nếu các chỉ dấu này có điều gì để nói lên hàm ý đó, thì Việt Nam là nước gần nhất với Hoa Kỳ – và xa Trung Quốc nhất – so với tất cả các nước Đông Nam Á.

Hoa Kỳ và Việt Nam đã xúc tiến ba chuyến thăm cấp cao kể từ khi bắt đầu đại dịch COVID-19 vào đầu năm 2020 – và con số sẽ sớm là bốn. Ngoại trưởng Mỹ khi đó là Mike Pompeo đã đến Việt Nam vào tháng 10 năm 2020, tiếp theo là Cố vấn An ninh Quốc gia lúc đó là Robert O’Brien vào tháng 11. Tháng trước, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Lloyd Austin đã tới Việt Nam trong chuyến công du ba nước Đông Nam Á bao gồm Singapore và Philippines. Phó Tổng thống Hoa Kỳ Kamala Harris sẽ đến Việt Nam vào thứ Ba, trong chuyến công du đầu tiên tới châu Á.

Đã có hai chuyến thăm cấp cao giữa Trung Quốc và Việt Nam trong cùng một khoảng thời gian. Bộ trưởng Bộ Công an Trung Quốc Zhao Kezhi (Triệu Khắc Chí) đã đến Việt Nam vào tháng 2 năm 2021, tiếp theo là Bộ trưởng Quốc phòng Wei Fenghe (Ngụy Phượng Hoàng) vào tháng 4. Đáng chú ý nhất, kể từ khi đại dịch bắt đầu, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị và Ủy viên Quốc vụ Dương Khiết Trì đã đến thăm tất cả các quốc gia thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), ngoại trừ Việt Nam .

Việc tặng vaccine COVID-19 cũng có thể đo lường mức độ ấm áp giữa các quốc gia. Tính đến nay Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam, đất nước gần 100 triệu dân, tổng số 700.000 liều, trong đó 500.000 liều ưu tiên cho công dân Trung Quốc, cư dân các tỉnh giáp Trung Quốc, du khách Việt Nam sang Trung Quốc, 200.000 liều cho Quân đội nhân dân Việt Nam. Để so sánh, Trung Quốc đã cung cấp cho Lào, quốc gia 7 triệu dân, gần 3 triệu liều. Đối với Việt Nam, cho đến nay Hoa Kỳ là nhà tài trợ lớn nhất, với 5 triệu liều vaccine được trao làm quà tặng .

Nhưng những dấu hiệu này trái ngược với các chọn lựa chính thức về các mối quan hệ của chúng. Việt Nam gọi 14 nước là “đối tác chiến lược” và 3 nước khác – Trung Quốc, Nga và Ấn Độ – là “đối tác chiến lược toàn diện”. Với tư cách là một “đối tác toàn diện”, Hoa Kỳ đứng ở cấp độ thấp hơn, cùng với Argentina, Đan Mạch và Hungary . Tại sao có sự khác biệt đó?

Mối quan hệ giữa Washington và Hà Nội là một trong những mối quan hệ nhạy cảm nhất và tinh tế nhất trên thế giới. Những ký ức lịch sử, sự khác biệt về ý thức hệ, và những mối quan tâm trong nước thường làm nên những điều không thể diễn tả được trong mối quan hệ đang phát triển này. Nhưng nhân tố lớn nhất khiến mối quan hệ Việt – Mỹ trở nên quá mỏng manh và tế nhị là Trung Quốc. Đây cũng là yếu tố quan trọng tạo nên và không làm thay đổi diện mạo mang tính chiến lược của mối quan hệ Việt – Mỹ.

Để xoa dịu Trung Quốc, chính quyền Carter đã tạm hoãn bình thường hóa với Việt Nam vào năm 1978, giúp trì hoãn quá trình bình thường hóa cho đến sau Chiến tranh Lạnh. Tua nhanh đến đầu những năm 2000, khi chính quyền George W. Bush coi Việt Nam là một đối tác chiến lược tiềm năng vì coi Trung Quốc là một đối thủ cạnh tranh chiến lược tiềm tàng. Năm 2008, Việt Nam tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương, một nhóm được cho là đối trọng quan trọng đối với sức mạnh kinh tế của Trung Quốc, theo như lời mời của Washington.

Hoa Kỳ chính thức đề nghị quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam vào tháng 7 năm 2010 khi Ngoại trưởng Hillary Clinton gặp các nhà lãnh đạo Việt Nam tại Hà Nội. Bà đến tham dự một cuộc họp của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), tại đó bà tuyên bố các lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ về tự do hàng hải, quyền tiếp cận rộng rãi với các hoạt động hàng hải của châu Á và tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông. Đến Hà Nội lần nữa vào tháng 7 năm 2012, bà đã dành cho Việt Nam một trong những sự ủng hộ công khai mạnh mẽ nhất trước mối thù truyền kiếp với Trung Quốc ở Biển Đông. Bà cũng mời Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) Nguyễn Phú Trọng, người không có người đồng cấp ở Hoa Kỳ, đến Washington vào năm tới.

Điều này đã làm dấy lên một cuộc tranh luận lớn trong giới lãnh đạo Việt Nam. Trong khi các nhân vật ủng hộ hội nhập quốc tế mong muốn mở rộng hợp tác với siêu cường phương Tây này, thì những người chống phương Tây lại lo lắng rằng điều này sẽ làm xói mòn quyền cai trị của Đảng Cộng sản.

Vào dịp kỷ niệm Giáng sinh năm 1972, ngày Mỹ ném bom vào Hà Nội, tháng 12 năm 2012 Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh đã cảnh báo rằng Washington có thể xâm lược đất nước này một lần nữa “khi có cơ hội”. Năm sau, chính Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, chứ không phải đảng trưởng Trọng, đã đến Hoa Kỳ. Và tại chuyến thăm của ông, hai nước đã nâng quan hệ lên “quan hệ đối tác toàn diện”, thấp hơn mức “chiến lược”.

Việc Trung Quốc vượt qua lằn ranh đỏ của Hà Nội đã đẩy Việt Nam vượt qua lằn ranh đỏ tự đặt ra trong quan hệ với Hoa Kỳ. Khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan dầu khổng lồ HYSY-981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ) trong 75 ngày, vào mùa hè năm 2014, quan hệ giữa hai nước Cộng sản đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ khi họ có thái độ thù địch công khai vào những năm 1980.

Một lần nữa, Hoa Kỳ lại ra mặt với sự ủng hộ công khai mạnh mẽ nhất dành cho Việt Nam. Nó cũng phù hợp với lời nói với hành động dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí hàng hải cho Hà Nội.

Cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu được chứng minh là một thử thách đáng tiếc và là một yếu tố thay đổi cuộc chơi. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Cộng sản Việt Nam tin tưởng Washington hơn là tin tưởng Trung Quốc Cộng sản. Kể từ đó, các nhà lãnh đạo quân sự của Việt Nam cũng đã ngừng cao giọng về triển vọng một cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam.

Khi sếp trưởng ĐCSVN Trọng đến thăm Nhà Trắng vào tháng 7 năm 2015, Việt Nam muốn thêm thuộc tính “sâu rộng” vào “quan hệ đối tác toàn diện”, một thứ mô phỏng bắt chước “quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng” mà Nhật Bản và Việt Nam đã công bố vào tháng 3 năm 2014. Kế hoạch này đã không được thông qua, có lẽ vì Washington không muốn có kiểu nửa vời. Nhưng lòng tin giữa hai cựu thù đã được củng cố rất nhiều. Năm tiếp theo, sự tin cậy song phương tiếp tục được thúc đẩy khi Tổng thống Barack Obama thăm Việt Nam, và ngay trước chuyến công du, đã chấm dứt hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí của Mỹ đối với Việt Nam kể từ năm 1975.

Trong khi đó, Trung Quốc tăng cường xâm phạm vùng biển Việt Nam. Sau khi xây dựng các đảo nhân tạo lớn ở Trường Sa, Bắc Kinh tiếp tục quấy rối hoạt động thăm dò hydrocacbon (dầu mỏ) ngoài khơi của Việt Nam, buộc Hà Nội phải hủy bỏ các dự án mớitrả giá đắt cho việc phá vỡ hợp đồng. Đến năm 2018, Bộ Chính trị Việt Nam đã thông báo về việc chuẩn bị nâng quan hệ với Hoa Kỳ lên đối tác chiến lược chính thức. Theo kế hoạch, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng sẽ đến thăm Tổng thống Donald Trump vào cuối năm 2019 và hai người sẽ công bố danh xưng mới đó. Nhưng vấn đề sức khỏe của Trọng đã ngáng trở, và chuyến đi của ông ta bị hoãn vô thời hạn.

Khi Nhà Trắng đổi chủ vào tháng 1 năm 2021, một tình trạng không chắc chắn mới đã bao trùm các kế hoạch cũ. Đang ở giai đoạn cuối của việc Trung Quốc ngày càng gây hấn ở Biển Đông, Việt Nam vẫn nuôi hy vọng nâng cấp quan hệ Việt – Mỹ. Nhiều lần, các nhà ngoại giao cấp cao của Việt Nam đã công khai lưu ý rằng quan hệ đối tác song phương đã mang tính “chiến lược” mặc dù trên danh nghĩa là “toàn diện”.

Chính quyền Biden cũng bày tỏ mong muốn có quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam. Trong bản hướng dẫn Chiến lược An ninh Quốc gia Tạm thời của nước này, được ban hành vào tháng 3 năm 2021, đã nêu tên Việt Nam là một trong số các quốc gia mà Washington sẽ tập trung vào để “làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác của chúng ta… nhằm thúc đẩy các mục tiêu chung”.

Phát biểu trước Thượng viện vào ngày 13 tháng 7, người được Tổng thống Joe Biden đề cử làm đại sứ tiếp theo tại Việt Nam, Marc Knapper, cho biết: “Hiện tại, chúng ta có cái mà chúng ta gọi là quan hệ đối tác toàn diện; chúng tôi hy vọng sẽ nâng tầm quan hệ này lên thành quan hệ đối tác chiến lược và tôi sẽ có các bước tiến để thực hiện điều đó bằng cách tăng cường hơn nữa mối quan hệ an ninh của chúng ta với Việt Nam”. Hai tuần sau, các nhà lãnh đạo Việt Nam có thể đã nghe trực tiếp ý định này của Hoa Kỳ từ chuyến thăm Bộ trưởng Quốc phòng Austin.

Động lực hiện đang được thiết lập để hai nước công bố quan hệ đối tác chiến lược của họ, vốn đã quá hạn lâu dài, trong lần gặp mặt trực tiếp giữa các nhà lãnh đạo cấp cao nhất của họ vào lần tới.

Trong một tầm nhìn tổng thể rộng lớn, sự cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, giữa Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục hội tụ với nhiều vấn đề quan trọng. Cả Hoa Kỳ và Việt Nam đều nằm trong số những quốc gia cam kết ngăn chặn sự thống trị của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Cả hai đều mong muốn duy trì một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ ở Biển Đông. Và cả hai đều quan tâm đến việc tái cấu trúc chuỗi cung ứng quốc tế để giảm sự phụ thuộc quá mức vào thị trường Trung Quốc.

Một liên minh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Việt Nam là kết quả hợp lý của sự hội tụ này. Việc định danh chính thức cho mối quan hệ đó là quan trọng vì nó hệ thống hóa cam kết và giúp phối hợp trong nước và song phương; nhưng nó sẽ bị tụt hậu bởi thực tế của tính chất không chính thức từ nhu cầu giảm thiểu thái độ cảnh giác của Trung Quốc. Mức độ của sự tụt hậu phụ thuộc chủ yếu vào cường độ của các cuộc cạnh tranh.

Nhìn về tương lai, khi những mối quan hệ kình địch này chắc chắn lớn dần, quan hệ Việt – Mỹ có thể sẽ được nâng lên thành “đối tác chiến lược toàn diện” trong vòng một thập kỷ.

Ba Sàm bổ sung về tác giả:

GS Alexander L Vuving (theo VOA thì ông là người gốc Việt, tên là Vũ Hồng Lâm, nhưng có nguồn khác ghi ông là người Mỹ gốc Hoa, có lẽ đúng cả hai), từng có rất nhiều bài viết, trả lời phỏng vấn, chuyên luận liên quan chủ quyền, chính trị Việt Nam, đăng trên cả báo của VN, nước ngoài, và trang mạng. Dưới đây là một số bài:

+ 608. ADIZ ở Biển Đông: con chó cuối cùng sẽ sủa?

+ 748. Khả năng Trung Quốc thiết lập một ADIZ ở Biển Đông

+ 2252. Về đâu bây giờ cho Việt Nam sau Trọng?

Đại chiến lược hai hướng: Chính sách đối ngoại của Việt Nam từ khi Đổi mới (Ba Sàm, 2004)

TRUNG QUỐC DÙNG KẾ ‘KHÔNG ĐÁNH MÀ THẮNG’ CỦA TÔN TỬ TRÊN BIỂN ĐÔNG . + ‘BIỂN ĐÔNG ĐANG HUN ĐÚC TÌNH CẢM VÀ BIỂU TƯỢNG YÊU NƯỚC CỦA NGƯỜI VIỆT’ (THANH NIÊN, 2015).

5526. Nghĩ lại: huyền thoại và thiển cận về Biển Đông (Ba Sàm, 2015)

TBT Trọng đi Mỹ: Chuyến đi mở cục diện mới (BBC, 2015)

3882. Đại hội 2016 sẽ là thời điểm thay đổi trong chính trường Việt Nam? (Ba Sàm, 2015)

+ 7122. Trung Quốc sẽ làm gì ở Biển Đông? (Ba Sàm, 2016)

Cuộc đua chức Tổng bí thư VN ‘căng thẳng chưa từng thấy’ (VOA, 2016)

Trung Quốc sẽ làm gì ở Biển Đông? (Nghiên cứu quốc tế, 2016)

Cách Mỹ có thể giành quyền kiểm soát ở Biển Đông (Nghiên cứu quốc tế, 2017)

3 comments

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.